Những thách thức từ làn sóng FDI Trung Quốc

Dấu ấn của các doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam ngày càng rõ nét, được thể hiện qua dòng vốn FDI từ Trung Quốc vào Việt Nam ngày càng tăng. Tuy vậy, đằng sau đó là những thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp trong nước. Liên quan vấn đề này, Đầu tư Tài Chính – VietnamFinance đã trao đổi với ông Ngô Nghị Cương, chuyên gia tư vấn đầu tư nước ngoài, Giám đốc điều hành Công ty cổ phần Tư vấn và Đầu tư C+.

- Theo ông, đâu là yếu tố khiến các doanh nghiệp Trung Quốc ngày càng ưu tiên đầu tư vào Việt Nam?

Trung Quốc hiện là đối tác đầu tư đứng thứ 6 trong tổng số 144 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn đăng ký luỹ kế vào hiệu lực đến hết năm 2023 là gần 27,479 tỷ USD.

Trong năm 2023, chúng tôi đã đón tiếp gần 10 đoàn nhà đầu tư Trung Quốc, tiếp xúc trực tiếp với gần 200 nhà đầu tư lớn nhỏ từ Trung Quốc quan tâm việc đầu tư tại Việt Nam.

Trước tiên phải nói rằng, dòng vốn đầu tư Trung Quốc vào Việt Nam xuất phát từ nhu cầu đầu tư ra bên ngoài của các doanh nghiệp Trung Quốc, trong đó có yếu tố của sự dịch chuyển sản xuất do tình hình địa chính trị thay đổi.

Nếu so với Thái Lan và Malaysia – nơi mà cộng đồng doanh nhân gốc Hoa cũng đáng kể và có ảnh hưởng nhất định thì Việt Nam ổn định hơn về mặt chính trị - xã hội. So với Lào - quốc gia láng giềng khác của Trung Quốc – thì Việt Nam hoàn toàn vượt trội về nguồn nhân lực và năng suất lao động.

So với Campuchia – nơi mà Trung Quốc tăng cường sự hiện diện bằng dòng vốn ODA thì Việt Nam hấp dẫn hơn về môi trường đầu tư, sinh sống, và chuỗi cung ứng. Mặt khác, nếu xét về độ mở thị trường và tính hội nhập quốc tế thì Việt Nam hoàn toàn là một nơi hấp dẫn vượt trội hơn các quốc gia Đông Nam Á khác.

Việc các nhà đầu tư Trung Quốc cần thiết lập nhà máy bên ngoài Trung Quốc bắt nguồn từ xung đột thương mại Mỹ - Trung những năm gần đây. Theo báo cáo của Cục Thương Mại Mỹ, trong nửa đầu năm 2023, hàng hoá của Trung Quốc nhập khẩu vào Mỹ chỉ chiếm 13,3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu, giảm 16,5% so với cùng kỳ năm 2022. Đây là mức nhập khẩu hàng Trung Quốc thấp nhất trong gần hai thập kỷ của Mỹ. Do đó, các nhà sản xuất Trung Quốc, đặc biệt là những nhà sản xuất có hàng đi Mỹ và châu âu dường như không thể chờ đợi lâu hơn nữa. Họ buộc phải chuyển một phần sản xuất của họ ra ngoài Trung Quốc và đầu tư sang Việt Nam là lựa chọn hàng đầu.

Yếu tố gần gũi về mặt địa lý và văn hoá giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng ảnh hưởng không nhỏ đến làn sóng FDI Trung Quốc vào nước ta. Các doanh nghiệp Trung Quốc nhận thấy việc giao thương và lưu chuyển hàng hoá qua lại với Việt Nam là rất thuận lợi do hai quốc gia có chung đường biên giới dài.

Một bộ phận doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm giao thương với các doanh nghiệp nước láng giềng cũng đã góp phần giúp các doanh nghiệp Trung Quốc dễ dàng thâm nhập vào thị trường Việt Nam hơn.

- Với thực tế xúc tiến đầu tư, theo ông, đâu là những lĩnh vực đang được các doanh nghiệp Trung Quốc ưu tiên khi vào thị trường Việt Nam?

Các doanh nghiệp Trung Quốc hiện nay đầu tư vào Việt Nam chủ yếu là sản xuất, chế biến chế tạo và xây dựng, tập trung phần lớn ở các tỉnh phía Bắc. Trong đó, ngành sản xuất được Trung Quốc đầu tư vào có thể kể đến gồm tấm pin năng lượng mặt trời, linh kiện điện tử, linh kiện ô tô, sản phẩm cơ khí, đồ điện gia dụng, lốp xe, và hàng dệt may.

Ngoài ra, một số tập đoàn công nghệ cao trong lĩnh vực xe điện và chip bán dẫn của Trung Quốc hiện bắt đầu quan tâm tìm hiểu môi trường đầu tư và các chính sách ưu đãi của Việt Nam. Sau cùng, Thương mại điện tử cũng là một mảng mà nhà đầu tư Trung Quốc quan tâm đầu tư tại Việt Nam.

- Với làn sóng FDI Trung Quốc, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có những cơ hội gì?

Giống như các nguồn vốn đầu tư nước ngoài khác, khi dòng vốn FDI Trung Quốc tăng cao sẽ mang lại những cơ hội nhất định cho doanh nghiệp Việt Nam.

Các doanh nghiệp trong nước có thêm cơ hội cung cấp hàng hoá dịch vụ, điển hình như ngành xây dựng, logistics, cung ứng lao động và các ngành dịch vụ đi kèm. Ngành bất động sản công nghiệp cũng có thêm dư địa phát triển do nhu cầu nhà xưởng và kho bãi tăng cao. Các doanh nghiệp trong nước từ đó cũng có cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng cho các doanh nghiệp FDI Trung Quốc, đặc biệt với những doanh nghiệp đang có hàng xuất đi Mỹ, châu Âu.

Mặt khác, khi có nhiều doanh nghiệp sản xuất lớn của Trung Quốc sang đầu tư, cơ hội tiếp cận công nghệ, máy móc thiết bị, nguồn nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp trong nước sẽ rộng mở hơn.

Trong nhiều năm, cán cân thương mại Việt Nam – Trung Quốc luôn âm, cụ thể như 2022 kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc gấp đôi kinh ngạch xuất khẩu chiều ngược lại. Nay, các doanh nghiệp trong nước có thể trực tiếp tiếp cận các nhà sản xuất Trung Quốc ngay tại chỗ và mua hàng. Điều quan trọng hơn nữa là, nếu biết tận dụng và thiết lập được cơ hội hợp tác phát triển, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội nâng cao năng lực sản xuất và mở ra thị trường xuất khẩu mới.

- Đi cùng với cơ hội sẽ là thách thức. Vậy theo ông, những thách thức mà doanh nghiệp Việt phải đối mặt khi ngày càng có nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào nước ta là gì?

Theo tôi, thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam nhiều hơn cơ hội. Đầu tiên, Trung Quốc đã thành công trong việc phát triển thành “công xưởng của thế giới” tại Trung Quốc. Chi phí giá thành trên một đơn vị sản xuất của họ sản xuất ra rất cạnh tranh. Điều này đồng nghĩa năng lực sản xuất, công nghệ, và máy móc thiết bị của các doanh nghiệp Trung Quốc đã đi xa hơn các doanh nghiệp Việt Nam vốn khó khăn về vốn và thiếu đầu tư vào nghiên cứu phát triển.

Trong thời gian đầu vào đầu tư, có thể các doanh nghiệp Trung Quốc “dùng tạm” một số sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp trong nước, nhưng sau một thời gian, khi họ đã quen thuộc và đưa hệ sinh thái kinh doanh của họ sang Việt Nam thì cơ hội cung ứng của doanh nghiệp Việt Nam dần không còn nữa.

Thứ hai, khả năng bị các doanh nghiệp FDI Trung Quốc chiếm mất thị phần trong nước là có. Dù hiện nay, như một phương án sống còn để tiếp tục xuất hàng đi u Mỹ, các doanh nghiệp Trung Quốc chỉ dự kiến đầu tư một phần năng lực sản xuất của họ ở Việt Nam, phần mà để xuất khẩu.

Tuy nhiên, họ sẽ sớm nhận thấy các cơ hội mới ngay tại thị trường Việt Nam, với các khách hàng lớn Nhật Bản, Hàn Quốc, u, Mỹ đang hiện diện tại Việt Nam. Khi đó, họ dễ dàng tăng năng lực sản xuất và khai thác thị trường Việt Nam. Các doanh nghiệp trong nước sẽ bị cạnh tranh khi đang nỗ lực thâm nhập vào chuỗi cung ứng của các nhà sản xuất toàn cầu ngay tại sân nhà.

Thứ ba, rủi ro một số ngành hàng xuất khẩu sang thị trường Mỹ của Việt Nam sẽ bị “vạ lây” điều tra hay bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại … khi có những hàng hoá xuất đi bị các doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam gian lận nguồn gốc xuất xứ hàng hoá như đã từng có cảnh báo với các sản phẩm đồ gỗ Việt Nam xuất khẩu.

Thứ tư là rủi ro các doanh nghiệp sản xuất trong nước bị thâu tóm. Tuy còn quá sớm để thấy hiện tượng này trong làn sóng đầu tư của Trung Quốc hiện nay, nhưng sẽ xảy ra. Nền sản xuất trong nước hiện chưa phát triển. Rất ít các doanh nghiệp nội dẫn dắt trong các ngành sản xuất, chế biến chế tạo.

Đặc biệt là tính kế thừa giữa các thế hệ (thế hệ sáng lập sang thế hệ con cháu) không cao. Nhiều doanh nghiệp đã “bán mình” cho doanh nghiệp nước ngoài chỉ vì không có thế hệ kế thừa tiếp theo trong gia đình.

Để nhanh chóng thâm nhập thị trường Việt Nam, việc thâu tóm một doanh nghiệp cùng ngành sẽ là một trong những chiến lược được các tập đoàn, doanh nghiệp Trung Quốc quan tâm. Khi đó, thật khó cho các doanh nghiệp Việt Nam giữ mình và giữ thị trường nội địa.

Xin cảm ơn ông!

 

Chat qua zalo