Tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2021: Nhiều động lực, lắm thách thức

Kinh tế Việt Nam trong năm 2021 nói riêng và giai đoạn 2021 – 2025 nói chung thừa hưởng nhiều yếu tố thuận lợi từ nội lực, song cũng đối diện nhiều thách thức ngoại lai.

Tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2021: Nhiều động lực, lắm thách thức

Những động lực tăng trưởng chính

Theo nghiên cứu của Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia (NCIF), trong năm 2021 và giai đoạn 2021 – 2025, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được hỗ trợ bởi ít nhất 5 yếu tố.

Một là sự thành công trong việc ngăn chặn sự lây lan của Covid-19 và giữ được ổn định kinh tế vĩ mô. Đây được xem là yếu tố nền tảng cho quá trình phục hồi kinh tế.

Nhìn lại năm 2020, một năm đầy khó khăn và biến động, kinh tế Việt Nam đã cho thấy sức bật và vị thế tương đối tốt để thoát khỏi “bẫy kinh tế” của khủng hoảng Covid-19. Kết quả này là nhờ cộng hưởng của thành công trong kiểm soát dịch bệnh và những thành tựu, động lực tăng trưởng kinh tế được tích lũy từ trước đó.

Năm 2021, với nền tảng đã có kết hợp với việc tiếp tục cải cách nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp thoát khỏi khó khăn, tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tiếp tục thực thi các FTA thế hệ mới và sự thúc đẩy tái cơ cấu về tổ chức và công nghệ, chuyển đổi số, chuyển đổi mô hình hướng tới tăng trưởng nhanh, bền vững trong hoạt động của doanh nghiệp, kinh tế Việt Nam có cơ hội tăng trưởng trở nhanh lại.

Yếu tố thứ hai là sự phục hồi tăng trưởng của các thị trường đối tác lớn. Sự phục hồi này có thể hỗ trợ gia tăng xuất khẩu của Việt Nam năm 2021.

Dự báo của hầu hết các tổ chức quốc tế cho thấy, kinh tế thế giới và các nước có thể đạt tăng trưởng cao trong năm 2021, đặc biệt là các quốc gia đối tác thương mại, đầu tư lớn của Việt Nam, như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và các đối tác khác.

Trong bối cảnh đó, EVFTA cùng với CPTPP và RCEP được cho là nhân tố tích cực, hỗ trợ kinh tế Việt Nam phục hồi tốt hơn trong năm 2021 và 2021-2025. Xuất khẩu sang Mỹ và Trung Quốc có thể tiếp tục duy trì trong bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ - Trung chưa có dấu hiệu cải thiện (ngay cả khi tăng trưởng kinh tế Trung Quốc ở mức thấp, kinh tế Mỹ giảm sâu, xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường này vẫn tăng trưởng mạnh).

Với triển vọng tốt hơn trong năm 2021 ở cả hai thị trường lớn, xuất khẩu của Việt Nam càng có cơ sở kì vọng tăng tốc. Dù vậy, xuất khẩu sang Mỹ đang đối mặt với rủi ro lớn khi Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách “quốc gia thao túng tiền tệ”.

Yếu tố thứ 3 hỗ trợ Việt Nam tăng trưởng là “thương hiệu quốc gia”. Việt Nam đang cho thấy “sức hấp dẫn” đáng kể đối với các nhà đầu tư quốc tế dựa trên khả năng chống chịu của nền kinh tế trong đại dịch, triển vọng phục hồi sau đại dịch và các cơ hội từ các FTA.

Việt Nam cũng có khả năng được hưởng lợi từ sự dịch chuyển các chuỗi cung ứng sang những quốc gia có chi phí thấp hơn. Thực tế cho thấy mặc dù vốn FDI đăng ký năm 2020 giảm khoảng 15% nhưng vốn thực hiện giảm rất nhẹ (2%).

Do đó, có thể kì vọng khi đại dịch được kiểm soát, trạng thái bình thường mới được nhiều quốc gia áp dụng, FDI vào Việt Nam sẽ tiếp tục tăng, tạo cơ sở vững chắc hơn cho khả năng phục hồi tăng trưởng năm 2021 và những năm tiếp theo.

Yếu tố thứ tư là trong nội tại nền kinh tế, tiêu dùng nội địa và đầu tư công vẫn sẽ đóng vai trò quan trọng trong phục hồi tăng trưởng kinh tế năm 2021.

Tiêu dùng nội địa, đóng góp khoảng 68-70% trong GDP, có khả năng phục hồi nhờ yếu tố tâm lý thị trường và thu nhập được cải thiện. Đầu tư công nhiều khả năng tiếp tục được thúc đẩy bởi các dự án lớn bắt đầu triển khai từ năm 2020, cùng với nỗ lực của Chính phủ, bộ, ngành và địa phương hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu quả đầu tư, tạo sự lan tỏa đối với các thành phần, lĩnh vực khác trong xã hội.

Bên cạnh đó, khu vực tư nhân và FDI có cơ hội phục hồi sản xuất kinh doanh nhờ sự hồi phục cả phía cung, phía cầu.

Yếu tố thứ năm là khu vực công nghiệp - dịch vụ có thể đạt mức tăng trưởng cao hơn trong năm tới (từ mức thấp của năm 2020) nhờ sự phục hồi của thị trường tiêu thụ và các nguồn cung ứng. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, bán buôn, bán lẻ và vận tải, kho bãi được kì vọng phục hồi mạnh, trở lại vai trò dẫn dắt, động lực cho tăng trưởng kinh tế năm 2021. Khu vực nông nghiệp được dự báo tiếp tục tăng trưởng ổn định.

Theo NCIF, hầu hết các tổ chức quốc tế đều đánh giá cao triển vọng tăng trưởng của kinh tế Việt Nam năm 2021. Các dấu hiệu phục hồi tích cực bao gồm: nhiều chỉ số tài chính, kinh tế có dấu hiệu cải thiện hơn; Chính phủ chủ động và có kinh nghiệm hơn trong kiểm soát, đối phó với dịch bệnh; khu vực dịch vụ có cơ hội tăng trưởng cao hơn nếu trạng thái dịch bệnh ổn định được duy trì;

Xuất khẩu đang trong xu hướng tăng nhanh, đi kèm với các điều kiện thuận lợi: hầu hết nền kinh tế đối tác lớn đặc biệt Mỹ, Trung Quốc và EU tiếp tục xu hướng cải thiện tăng trưởng, tăng mạnh khai thác các ưu đãi trong EVFTA;

Đầu tư công tiếp tục được đẩy mạnh giải ngân và có điều kiện tăng mạnh giải ngân trong năm tới khi Chính phủ cho khởi công các dự án đầu tư công lớn; lãi suất ở mức thấp tiếp tục được duy trì; chính sách giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đã bắt đầu có hiệu lực (từ 30/8/2020).

Dài hạn hơn, lĩnh vực kinh doanh dựa trên nền tảng số có điều kiện để phát triển nhanh. Các nhóm hàng hóa, dịch vụ được giao dịch qua mạng và các nền tảng số có sự tăng trưởng mạnh trong bối cảnh đại dịch Covid-19. Riêng dịch vụ tài chính số, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng, Việt Nam hiện có mức tăng trưởng ấn tượng nhất trong khu vực.

Những thách thức ngoại lai

Theo NCIF, dù hưởng lợi từ nhiều yếu tố, kinh tế Việt Nam vẫn đối diện với nhiều thách thức. Cụ thể, rủi ro kinh tế toàn cầu vẫn rất lớn. Khả năng tăng trưởng cao trong giai đoạn 2021-2025 của Việt Nam trở nên khó khăn hơn. Diễn biến của Covid-19 có thể còn phức tạp và khó lường ngay cả khi vaccine được cung cấp.

Bên cạnh đó, tác động của các chính sách kích thích kinh tế khá hạn chế do dư địa của các chính sách tài khóa và tiền tệ hiện nay ở các quốc gia phát triển đều đang hạn hẹp dần. Hệ quả của các gói kích thích khối lượng tiền lớn tung vào thị trường trong khi cơ hội kinh doanh chưa phục hồi có thể làm tăng nguy cơ bất ổn tài chính, vĩ mô toàn cầu.

Nhiều quốc gia trên thế giới trong xu hướng “khủng hoảng chu kì”, “khủng hoảng cấu trúc” (như EU) trước khi đại dịch Covid-19 diễn ra. Kinh tế thế giới và các nước đối tác lớn dự báo khả năng phục hồi trở lại trạng thái trước khi đại dịch Covid-19 sẽ cần thời gian khoảng 2-4 năm tùy thuộc mức độ tác động. 

Các rủi ro địa chính trị có xu hướng tăng lên thời kỳ hậu dịch Covid-19 (IMF, 10/2020). Trật tự chính trị có xu hướng dịch chuyển quyền lực từ Tây sang Đông, do hậu quả dịch Covid-19 để lại cho các nước phương Tây khá nặng nề, thậm chí là nguy cơ khủng hoảng nợ công. Căng thẳng thương mại giữa các quốc gia vẫn tiếp diễn và chuyển sang cuộc chiến về công nghệ. Bản đồ thương mại hai chiều giữa các quốc gia cũng có xu hướng thay đổi trong trung hạn.

Sự kiện chuyển giao quyền lực tại Mỹ có ảnh hưởng nhất định tới cục diện kinh tế toàn cầu. Các dự báo trong trung hạn cho thấy suy thoái sẽ để lại những tổn thương trong các nền kinh tế và đòi hỏi những thay đổi về cấu trúc, tác động đến tiềm năng tăng trưởng. Các nhân tố này sẽ ảnh hưởng nhất định tới khả năng tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn tới.

Hiện tại, Việt Nam đang kiểm soát khá tốt tình hình dịch bệnh, song sự bất định của bối cảnh chung dẫn đến nhiều thách thức cho quá trình khắc phục hậu quả của khủng hoảng Covid-19. Kinh tế thế giới và các nước đối tác quan trọng chưa thực sự thoát khỏi khó khăn, quá trình phục hồi không vững chắc và chứa đựng nhiều rủi ro khiến triển vọng gia tăng xuất khẩu, thu hút đầu tư và quá trình phục hồi các chuỗi cung ứng đối với Việt Nam gặp nhiều khó khăn.

Theo NCIF, cú hích từ dịch chuyển chuỗi giá trị và dòng FDI vào Việt Nam có thể không như kỳ vọng. Các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu và dòng chảy thương mại dịch chuyển mạnh, theo hướng da dạng hơn sau đại dịch Covid-19.

Các chuỗi giá trị toàn cầu đang trong giai đoạn “tái định hình” dưới tác động của Covid-19, Việt Nam có cơ hội tham gia vào quá trình tái phân bổ các cơ sở sản xuất kinh doanh của các tập đoàn đa quốc gia. Tuy nhiên, cơ hội tham gia của Việt Nam không dễ dàng bởi tác động của số hóa, chủ nghĩa bảo hộ và năng lực hấp thụ FDI cũng như khả năng liên kết của FDI với SMEs (doanh nghiệp nhỏ và vừa) trong nước.

Trong nội tại nền kinh tế, quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế 2021-2025 đối mặt với một số thách thức: tác động, hiệu quả của các chính sách kích thích kinh tế khá hạn chế, nhiều đối tượng khó khăn trong việc tiếp cận các gói hỗ trợ; triển vọng đầu tư không đồng đều, đầu tư tư nhân vẫn yếu; sức khỏe của doanh nghiệp không dễ dàng hồi phục ngay sau thời gian dài khó khăn.

Xu hướng phục hồi tăng trưởng của xuất khẩu, của các ngành kinh tế (các ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ du lịch, lữ hành) có thể chưa chắc chắn trong năm 2021 nếu tình hình dịch bệnh còn diễn biến phức tạp.

Sức ép lạm phát và bất ổn vĩ mô do rủi ro chính sách siêu nới lỏng tiền tệ, tài khóa từ bên ngoài và chính sách tiền tệ mở rộng trong nước. Độ bền vững ngân sách nhà nước bị đe dọa nếu mức chi ở mức cao.

NCIF cũng chỉ ra rằng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng đang trở nên cấp bách hơn. Năm 2020, mặc dù kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng dương, nhưng về cơ bản Việt Nam vẫn theo quán tính của mô hình kinh tế dựa vào sự gia tăng của các yếu tố đầu vào. Đặc biệt là khi Chính phủ có nhiều chính sách để ứng phó với Covid-19 nhưng nguồn lực để có thể giải quyết vẫn rất khó khăn. Kích thích tăng trưởng kinh tế dựa trên gia tăng vốn đầu tư và lao động trình độ thấp không thể kéo dài quá lâu.

Theo NCIF, Cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế số được dự báo phát triển nhanh hơn sau Covid-19 giúp Việt Nam đứng trước cơ hội đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Việc tận dụng quá trình phát triển nhanh của Cách mạng công nghiệp 4.0 có thể tạo nền tảng để Việt Nam chuyển đổi nhanh hơn, từ mô hình tăng trưởng dựa vào tài nguyên, lao động chi phí thấp và thâm dụng vốn chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả, nhưng cũng đi kèm nhiều thách thức có thể bị bỏ lại phía sau hoặc lệ thuộc nhiều hơn vào các nước giàu.

Chat qua zalo